28/4/15

Dinh dưỡng cho người bệnh đái tháo đường


Dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng đối với bệnh nhân đái tháo đường, đặc biệt là đái tháo đường típ 2. Một chế độ dinh dưỡng và vận động hợp lý có thể kiểm soát tốt đường huyết mà không cần dùng thuốc hoặc giảm liều thuốc đang sử dụng và giảm các biến chứng do đái tháo đường gây ra.

Nên ăn

Nên ăn nhiều loại thực phẩm, từ 15 đến 20 loại để cơ thể nhận đủ các chất dinh dưỡng
Nên ăn nhiều bữa trong ngày để không làm tăng đường máu quá nhiều sau khi ăn và hạ đường máu quá nhanh lúc xa bữa ăn. Ăn 3 bữa chính và 1 đến 2 bữa ăn phụ.
Nên dùng thực phẩm ít gây tăng đường máu: Gạo lức, đậu đỗ, rau xanh, củ quả, trái cây ít ngọt.
Nên ăn thịt nạc, cá nạc, đậu hũ, yaourt, sữa (không béo, không đường)

Giảm ăn

Giảm ăn các loại thực phẩm gây tăng đường máu: Bánh kẹo, kem, chè, trái cây ngọt...
Giảm ăn các thực phẩm nhiều chất béo gây tăng mỡ máu: Da, lòng đỏ trứng, phủ tạng (gan, tim, thận...), thức ăn chiên xào...
Giảm ăn mặn và các thực phẩm chế biến sẵn chứa nhiều muối để phòng ngừa tăng huyết áp: Mì gói, chả lụa, mắm, khô, tương, chao...
Giảm uống rượu, bia, nước ngọt, nước ép trái cây ngọt.

Chỉ số đường huyết của thực phẩm

Chỉ số đường huyết (Glycemic Index - GI) là chỉ số chỉ mức độ tăng đường huyết sau khi ăn các thực phẩm giàu chất bột đường
Có 4 nhóm chỉ số đường huyết:
Rất thấp: < 40
thấp: Từ 40 - 55
Trung bình: 56 - 69
Cao: ≥ 70
Người bệnh đái tháo đường nên:
Sử dụng thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp
Hạn chế sử dụng thực phẩm có chỉ số đường huyết cao

Vận động thể chất

Vận động sẽ tăng sử dụng năng lượng, chất béo, chất bột đường, giúp ổn định đường huyết, giảm mỡ máu và giảm cân
Vận động giúp cải thiện chức năng tim phổi, phòng ngừa teo cơ ở người lớn tuổi
Vận động tạo cảm giác khỏe khoắn, giảm lo lắng, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
Nên vận động thường xuyên 3-5 ngày trong tuần, lúc nào cũng vận động, một mình cũng vận động
Nên vận động ở mức độ nhẹ và trung bình, kéo dài từ 20-30 phút mỗi ngày
Nên vận động cùng với bạn bè, người thân để được giúp đỡ khi cần thiết
Có thể vận động với loại hình mình yêu thích nhưng phải phù hợp với tuổi tác và sức khỏe. Tốt nhất là nên gặp bác sĩ chuyên khoa để được tư vấn.
Đi bộ, đạp xe, bơi lội, dưỡng sinh... là những môn thể dục thích hợp với người đái tháo đường.
Tập thói quen vận động nhẹ nhàng sau bữa ăn giúp hạ đường huyết.

Lưu ý:

Nên mang theo thức ăn có đường để đề phòng hạ đường huyết trong thời gian vận động
Thời gian tốt nhất để vận động là khoảng 3 - 4 giờ sau khi ăn. Tránh vận động lúc bụng đói
Bệnh nhân đái tháo đường có biến chứng nên hạn chế vận động

Khi nào không được vận động?

Đường huyết < 70 mg/dL < 3.9 mmol/l)
Có ceton trong nước tiểu và đường huyết > 250 mg/dL (> 13.9 mmol/l)
Không có ceton trong nước tiểu nhưng có đường huyết:
> 300 mg/dL (> 16.7 mmol/l) ở đái tháo đường típ 1
> 400 mg/dL (> 22.2 mmol/l) ở đái tháo đường típ 2
Khi nghỉ ngơi mà có cơn đau thắt ngực.


Tài liệu tham khảo
1) Thực đơn cho người bệnh đái tháo đường - Tủ sách TT Dinh dưỡng Tp. Hồ Chí Minh

Xem bài viết...
27/4/15

Dinh dưỡng cho người rối loạn mỡ máu

 

Dinh dưỡng cân đối

- Giảm cân nếu thừa cân, béo phì
- Giảm lượng chất béo dưới 25% so với tổng năng lượng trong bữa ăn hàng ngày.
Nên ăn:
- Đậu hũ, thịt nạc, cá (3 lần trong tuần), thịt gia cầm (bỏ da)
- Dầu thực vật (dầu đậu nành, dầu mè, dầu ô liu...)
- Rau quả và trái cây mỗi ngày (400g rau củ và 200g trái cây)
- Nên ăn khoai, bắp, gạo không chà xát quá trắng, ngũ cốc còn nguyên vỏ để tăng cường chất xơ.
 Hạn chế:
- Sữ dụng mỡ (trừ mỡ cá), dầu dừa, bơ, phô mai, phủ tạng động vật (gan, tim, thận, óc...), da (heo, gà, vịt...), lòng đỏ trứng, sữa nguyên kem.
- Hạn chế thức ăn chiên xào, thức ăn chế biến sẵn nhiều chất béo (gà rán, khoai tây chiên, xúc xích...).

Vận động giúp đốt cháy mỡ thừa

- Nên chọn các loại hình vận động phù hợp với sức khỏe như đi bộ, đạp xe, bơi lội, dưỡng sinh...
- Nên vận động ít nhất 30 phút mỗi ngày
- Nên vận động thường xuyên 5 lần/tuần
- Nên vận động ở mức trung bình lúc ban đầu và tăng dần cường độ.

Giảm dần và bỏ hẳn những thói quen có hại

- Ngưng hút thuốc lá vì thuốc lá không những làm gia tăng mảng xơ vữa động mạch, gây rối loạn mỡ máu mà còn gây tăng huyết áp, đái tháo đường
- Hạn chế và ngưng uống rượu bia.


Tài liệu tham khảo
1) Ngăn ngừa rối loạn mỡ máu - Tủ sách TT Dinh dưỡng Tp. Hồ Chí Minh


Xem bài viết...
24/3/15

Dinh dưỡng cho người bệnh Gout

Yếu tố nguy cơ của bệnh Gout

- Tăng acid uric máu: Lượng acid uric máu càng cao, càng nhiều khả năng trở thành bệnh Gout
- Ăn nhiều thức ăn chứa purine (hàm lượng purine cao: > 150 - 1000 mg%)
- Uống nhiều rượu
- Béo phì, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu

Bệnh nhân Gout thường mắc các bệnh kèm theo như: Béo phì, xơ mỡ động mạch, bệnh mạch vành, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, tăng huyết áp

Chế độ ăn

Cơ cấu khẩu phần:
- Năng lượng: 30 Kcal/kg thể trọng/ngày
- Chất đạm: 0,8 - 1g/kg thể trọng/ngày
- Chất béo: Chiếm 20% tổng năng lượng, nên sử dụng dầu thực vật trong chế biến món ăn.
- Chất bột đường: Chiếm 65% - 70% tổng năng lượng.

Thức ăn nên tránh và hạn chế

Kiêng tuyệt đối những thực phẩm giàu đạm có nguồn gốc purine như:
- Hải sản, các loại thịt có màu đỏ: Thịt trâu, bò, dê...
- Phủ tạng động vật: Lưỡi, lòng, tim, gan, thận, óc...
- Các loại trứng phát triển thành phôi như trứng vịt lộn...
Giảm bớt những thực phẩm giàu đạm khác như:
- Đạm động vật: Thịt heo, thịt gà, thịt vịt... Khi ăn thịt, nên ăn ở dạng luộc bỏ nước hoặc luộc bỏ nước rồi mới chế biến thành dạng khác.
- Cá và các loại hải sản: Lươn, cua, ốc, ếch...
- Đạm thực vật như các loại đậu (tuy nhiên cần lưu ý các chế phẩm từ đậu nành: Đậu phụ, sữa đậu nành... ít làm tăng acid uric hơn các loại đậu chưa chế biến).
Giảm các thực phẩm giàu chất béo no: Mỡ, da, phủ tạng động vật, thức ăn chiên, quay, mì gói, thức ăn nhanh...
Kiêng tất cả các loại thực phẩm như: Măng tre, măng trúc, măng tây, nấm, bạc hà (dọc mùng), giá đỗ... làm gia tăng tốc độ tổng hợp acid uric trong cơ thể.

Thức uống
Tuyệt đối không uống một dạng chất cồn nào: Rượu, bia... vì làm giảm bài tiết acid uric qua thận. Hạn chế đồ uống có ga, trà, cà phê.
Giảm các đồ uống chua và giàu Vitamin C: Nước cam, nước chanh... làm tăng nguy cơ kết tinh urat ở thận, tăng nguy cơ sỏi thận.

Thức ăn nên dùng

Các loại ngũ cốc: Gạo, bún tươi, phở, khoai củ, nui...
Sữa: Sữa gầy, sữa ít béo, sữa bò giàu đạm và nhiều nước nhưng chứa rất ít nhân purin, thích hợp cho bệnh nhân gout cấp và mạn tính.
Các loại quả ngọt (100-200g/ngày): Dưa hấu, lê, táo, nho... không ăn các loại quả nhiều chua.
Các loại rau xanh (>300g/ngày): Khoai tây, rau cần, súp lơ, dưa leo, cải xanh, cà (cà pháo, cà bát, cà tím), cải bắp, bí đỏ, bí xanh, đậu đỏ...
Bệnh nhân gout nên lựa chọn thức ăn ít nhân purin. Hạn chế các thực phẩm có hàm lượng nhân purin >150mg/100g

Thay đổi lối sống

- Trong cơn đau: Tuyệt đối để khớp nghỉ ngơi.
- Ngoài cơn đau: Cần có chế độ lao động và sinh hoạt thích hợp.
- Giảm cân từ từ nếu có béo phì
- Vận động nhẹ nhàng, vừa sức, tập luyện nhẹ nhưng thường xuyên như đi bộ, tập dưỡng sinh...
- Tránh làm việc nặng, quá sức. Hoặc tập luyện thể thao với cường độ mạnh.
- Giữ ấm cơ thể, tránh để lạnh, tránh dầm mưa lạnh.
- Ngâm chân nước ấm mỗi tối (không dùng nước quá nóng), không nên ngâm lúc đang bị viêm cấp.
- Giữ tinh thần luôn thoải mái, tránh căng thẳng.

Bảng hàm lượng Purin trong 100g thức ăn

Gan heo
515
Chuối tây
57
Cá mòi
345
Đậu cô ve
37
Cật heo
334
Dưa bở
33
Gan gà
234
Cải bắp đỏ
32
Đậu đen (hạt)
222
Cải soong
28
Thịt bê nạc
172
Nho ngọt
27
Cá hồi
170
Su hào
25
Thịt heo nạc
166
Mận
24
Chân giò heo (bỏ xương)
160
Cải bắp
23
Cá chép
160
Cà tím
21
Tôm biển
147
Dâu tây
21
Cá thu
145
Đào
21
Thịt vịt
138
Cam
19
Lưỡi lợn
136
Thơm
19
Thịt bò
133
Cà rốt
17
Thịt gà tây
110
Khoai tây
16
90
Táo tây
14
Óc heo
83
Hành tây
13
Đậu phộng
74
Rau diếp
13
Mơ khô
73
Rau xà lách
13
Đậu phụ
68
12
Vừng
62
Cà chua
11
Rau muống
57
Dưa chuột
7
 


Xem bài viết...
18/10/14

Dinh dưỡng cho người thừa cân, béo phì


1. Tổng quan
Tình trạng thừa cân, béo phì ngày càng gia tăng trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Thừa cân hay béo phì xuất hiện khi bạn sống trong một cuộc sống tĩnh tại, ít vận động và ăn những thức ăn không cân đối về mặt dưỡng chất trong một thời gian tương đối dài.

Những thức ăn không cân đối về mặt dưỡng chất khiến cho thừa cân hay béo phì có thể kể đến như: Những thức ăn có nhiều chất đường (các loại nước ngọt có gas, bánh ngọt, bánh snack…) và những thức ăn có nhiều chất béo (các món ăn tẩm bơ, phô mai, chiên xào với dầu mỡ…).

Tuy hàm lượng chất đường và chất béo cao, những món ăn kể trên lại thiếu những chất dinh dưỡng cần thiết như vitamin và khoáng chất, thậm chí thiếu cả những acid amin và chất béo thiết yếu. Thành ra, người béo phì vẫn có khả năng suy dinh dưỡng như thường. Điều này hoàn toàn trái ngược với cách suy nghĩ thông thường, rằng thừa cân hay béo phì là do dư thừa dưỡng chất.

Chính vì vậy, thừa cân béo phì không phải là khỏe mạnh mà là một căn bệnh cần được điều trị hẳn hoi. Thừa cân, béo phì kéo theo nhiều vấn đề sức khỏe liên quan như bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đột quỵ, tiểu đường, đau và thái hóa xương khớp, tăng mỡ máu, gan nhiễm mỡ, viêm gan, thậm chí là ung thư… khiến người bệnh bị giảm chất lượng cuộc sống cũng như tuổi thọ quý báu của chính mình.

Mặc dù vậy, rất nhiều người thừa cân, béo phì vẫn chưa hiểu rõ bản chất, rằng thừa cân, béo phì cũng là một căn bệnh cần phải điều trị càng sớm càng tốt. Họ phó mặc cho căn bệnh tiến triển theo thời gian, cho đến khi nhiều vấn đề sức khỏe nêu trên xuất hiện, làm giảm chất lượng cuộc sống và khiến họ khó chịu. Khi đó họ mới quan tâm điều trị với biết bao nhiêu khó khăn và tốn kém, nhưng không phải lúc nào việc điều trị cũng đạt được kết quả theo mong đợi, cuối cùng họ phải chịu sống chung với những biến chứng trong suốt quãng đời còn lại.

Thừa cân, béo phì thực sự là một căn bệnh nguy hiểm do sự chủ quan của người bệnh. Cơ thể là một cỗ máy thích nghi tuyệt vời. Khi cơ thể không còn khả năng tự điều chỉnh được nữa, các vấn đề sức khỏe dần xuất hiện. Bài viết này đề cập đến nhiều khía cạnh chuyên sâu, cũng như những quan điểm mới nhất về căn bệnh thừa cân béo phì. Hy vọng có thể giúp nâng cao nhận thức cho người bệnh, góp phần làm giảm tỉ lệ thừa cân, béo phì trong cộng đồng.

2. Một số quan niệm
a. Điều trị thừa cân, béo phì có nghĩa là giảm cân:
Điều này chưa hẳn là hoàn toàn đúng. Chính xác hơn phải là giảm khối mỡ thừa trong cơ thể (như mỡ dưới da, mỡ nội tạng), đồng thời duy trì và/hoặc tăng khối cơ của cơ thể. Tăng khối cơ giúp cơ thể khỏe hơn, tiêu thụ năng lượng hiệu quả hơn, đốt mỡ nhiều hơn, mỡ khó tích trữ và len lỏi giữa các thớ cơ hơn, từ đó tăng hiệu quả trong điều trị. Do vậy ở giai đoạn điều trị ban đầu, cân nặng có thể không giảm hoặc giảm rất ít, vì khối mỡ giảm và khối cơ lại tăng. Ở giai đoạn này, hiệu quả điều trị có thể thấy được qua sự tái phân bố mỡ trong cơ thể như giảm số đo vòng eo, và/hoặc sự giảm tỉ lệ mỡ dưới da và mỡ nội tạng. Ta có thể thấy được sự thay đổi của chỉ số mỡ dưới da và mỡ nội tạng thông qua máy quét sinh học.

b. Người bình thường hay nhẹ cân vẫn có thể có các nguy cơ sức khỏe của người thừa cân, béo phì:
Điều này đúng, vì đa số các vấn đề của người thừa cân, béo phì là do hậu quả của sự thừa quá mức lượng mỡ trong cơ thể và hậu quả của sự dư thừa mỡ gây nên. Vì vậy, những người có cân nặng bình thường hay nhẹ cân mà có lượng mỡ máu cao hay béo bụng thì cũng nên được xem như “thừa cân, béo phì” và cần được điều trị tích cực để tránh các nguy cơ kể trên.

c. Điều trị thừa cân, béo phì rất khó và không hiệu quả:
Điều này không đúng vì đã có rất rất nhiều người thừa cân, béo phì ở nhiều mức độ khác nhau đã được điều trị thành công. Phương pháp điều trị phải khoa học, chi phí hợp lý và dễ tuân thủ nhất nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Vấn đề còn lại ở người bệnh là sự quyết tâm và tuân thủ chặt chẽ chế độ ăn trong quá trình điều trị. Việc điều trị nào cũng cần phải có thời gian, công sức và chi phí, điều quan trọng là bạn có muốn thay đổi sức khỏe hay không.

3. Chế độ ăn cho người thừa cân béo phì
a. Năng lượng:
Phần lớn các chế độ ăn điều trị béo phì hiện nay là giảm năng lượng cung cấp từ thức ăn. Có thể bạn được tư vấn hay được thiết kế một chế độ ăn ít cơm hơn, ăn nhiều rau và thịt hơn? Chế độ ăn đó được thiết lập dựa trên sự cân bằng năng lượng.

Một chế độ ăn giảm năng lượng 500 Kcal/ngày trung bình giúp giảm cân khoảng 1kg/tuần. Điều này tương đương với giảm mỗi ngày khoảng 2,5 chén cơm, hay 400g thịt, hay 2 muỗng canh dầu, hay 5 hộp sữa chua, hay 5 ly sữa tươi… (hoặc giảm phối hợp các món ăn đó, mỗi thứ một ít). Chế độ ăn này khiến một số người cảm thấy mệt mỏi, khó chịu, đói bụng dữ dội… nên cần phối hợp ăn thêm rau và uống đủ nước. Nếu không chịu được chế độ ăn giảm 500 Kcal/ngày thì có thể bắt đầu với chế độ ăn giảm 300 Kcal/ngày. Thực tế chứng minh chế độ ăn này cũng có những hiệu quả nhất định, thích hợp với người thừa cân, béo phì nhẹ.

Tuy nhiên, nếu như việc điều trị chỉ đơn thuần dựa vào giảm năng lượng từ thức ăn, bạn gần như đang nắm trong tay sự thất bại. Bởi vì việc điều trị không phải là phép tính với những con số. Ăn ít năng lượng khiến cơ thể bạn đói bụng và mệt mỏi, bạn ít vận động hơn nên giảm năng lượng tiêu hao. Mặt khác, cơ thể lại càng cố gắng hấp thu và sử dụng năng lượng sao cho hiệu quả nhất, tăng cường tạo mỡ tích trữ năng lượng hơn. Tất cả nhằm tạo ra sự cân bằng cho cơ thể. Sự tái lập cân bằng này diễn ra mạnh mẽ đến nỗi một số người thừa cân, béo phì phải thốt lên “Tại sao tôi ăn cực kỳ ít mà vẫn mập”. Đó không phải là lỗi của bạn, nếu chế độ ăn giảm năng lượng không hiệu quả, thì hãy kết hợp thêm những phương pháp khác ở những phần sau đây.

b. Chất đường:
Một số người nghĩ muốn giảm béo thì chỉ cần hạn chế chất béo. Họ không biết rằng chế độ ăn hạn chế chất đường cũng đóng một vai trò quan trọng không kém. Ăn quá nhiều chất đường khiến cơ thể không thể chuyển hóa hết chất đường thành năng lượng để sử dụng mà chuyển hóa phần chất đường dư thừa thành mỡ để tích trữ. Hạn chế chất đường là đúng nhưng vẫn chưa đủ. Một miếng bánh quy nhỏ ăn vào cũng khiến cho lượng đường huyết tăng vọt, lượng insulin tiết ra nhiều hơn giúp tế bào hấp thu dưỡng chất và tích trữ năng lượng nhiều hơn.

Mấu chốt ở đây là ăn những thức ăn có chỉ số đường huyết thấp, hay chính xác hơn là có tải đường thấp. Loại thức ăn này giúp đường được hấp thu vào máu một cách từ từ, giúp đường huyết ổn định, không tăng quá nhanh. Những thức ăn như thế thường là “nguyên vỏ, nguyên hạt”, ví dụ như: Ta nên ăn gạo lức thay cho gạo thường, ăn cam nguyên tép thay cho uống cam ép, ăn các loại đậu và hạt nguyên vỏ có thể ăn được thay cho bánh snack. Không ăn hoặc hạn chế ăn tối đa đối với những thức ăn có chỉ số đường cao, những thức ăn cung cấp năng lượng rỗng (chỉ cung cấp chất đường mà không cung cấp vitamin và các chất dinh dưỡng khác) như: Nước ngọt, bánh ngọt, kẹo, mứt…

c. Chất béo:
Đa số những người muốn giảm cân thường hạn chế chất béo tối đa. Họ không ăn thịt mỡ, không ăn những món ăn chiên xào, họ uống các loại sữa tách béo... Nhưng không hiểu sao việc giảm cân cũng không có kết quả. Họ không biết rằng chất béo có cả trong thịt nạc, trứng, phô mai, mè… do đó việc ăn nhiều thịt trong quá trình giảm béo cũng khiến việc điều trị kém hiệu quả. Mặt khác, không ăn nhiều chất béo cũng khiến cho cơ thể cảm thấy thiếu thốn (vì chất béo cũng là dưỡng chất cần thiết cho cơ thể). Do đó, cơ thể tăng cường tổng hợp chất béo để bổ sung nguồn thiếu hụt đó. Vì chất đường cũng được hạn chế trong quá trình điều trị, cơ thể buộc phải sử dụng chất đạm dự trữ trong cơ thể để tạo chất béo. Nguồn chất đạm bị sử dụng chủ yếu ở cơ, nên các cơ bắp bị mất đạm trở nên teo và yếu đi khiến cho cơ thể mệt mỏi, nhưng lượng mỡ trong cơ thể không hề giảm, thậm chí tăng thêm. Vậy phải làm thế nào cho đúng?

Điểm mấu chốt ở đây là chỉ hạn chế ăn chất béo nguồn gốc từ động vật. Nhưng chất béo có nguồn gốc từ các loại cá nước biển sâu như cá hồi, cá trích, cá thu, cá ngừ, cá mòi… và chất béo có nguồn gốc từ thực vật như dầu mè, dầu ô liu, dầu đậu nành…(trừ dầu cọ và dầu dừa) lại tốt cho sức khỏe, vì nó chứa nhiều axit béo không no. Ta có thể sử dụng chất béo loại này ở mức độ vừa phải (vì ăn nhiều, thừa năng lượng lại tăng cân). Các axit béo không no thuộc nhóm chất béo chưa bão hòa ví dụ như: Omega-3, Omega-6, Omega-9… trong đó Omega-3 rất quan trọng trong việc điều trị kháng viêm hệ thống ở người thừa cân béo phì, giúp giảm cholesterol máu…

d. Chất đạm:
Rất cần thiết để duy trì khối cơ bắp cơ thể. Nên hạn chế ăn thịt bò và thịt heo... có nhiều mỡ, nên ăn các loại thịt chứa ít mỡ như thịt lươn, thịt ếch, thịt cá… Các loại đạm từ thực vật như đậu phụ, bột đạm từ đậu nành… là nguồn đạm rất tốt trong quá trình điều trị do có hàm lượng chất đạm cao và ít chất béo. Tránh ăn da và phủ tạng động vật các loại vì chứa tỉ lệ chất béo cao, đạm thấp.

e. Vitamin và khoáng chất:
Ở người thừa căn, béo phì, việc điều trị ăn kiêng khiến cơ thể không nhận được đủ lượng vitamin và khoáng chất hàng ngày cho cơ thể. Vitamin giúp duy trì các hoạt động chuyển hóa bình thường của cơ thể (tham khảo thêm vai trò của từng loại vitamin). Đặc biệt là vitamin B1 có vai trò trong việc chuyển hóa chất đường thành năng lượng, thiếu nó, cơ thể chuyển hóa đường thành mỡ dự trữ khiến việc điều trị khó khăn hơn hoặc thậm chí không có kết quả. Trong một phác đồ giảm cân hay giảm béo một cách khoa học, chế độ ăn bổ sung các thực phẩm giàu vitamin và khoáng chất là điều không thể thiếu. Chuyển hóa trong cơ thể bình thường giúp cơ thể cân bằng, thoải mái và khỏe mạnh, việc điều trị sẽ hiệu quả hơn.

d. Nước:
Nước rất cần thiết cho tất cả mọi đối tượng, trong điều trị giảm cân, giảm béo cũng vậy. Nước là môi trường để các hoạt động chuyển hóa các chất dinh dưỡng diễn ra. Do đó nên thường xuyên uống đủ nước. Nhu cầu nước của một người bình thường khoảng 50 kg là 2 lít nước/ngày. Một số thực phẩm, thuốc giảm cân trên thị trường giúp lợi tiểu, do đó việc giảm cân chủ yếu dựa trên sự giảm lượng nước trong cơ thể. Cách điều trị đó không khoa học vì điều trị giảm cân, giảm béo phải là giảm mỡ chứ không phải là giảm nước cơ thể. Uống nước đúng cách là uống từ tốn theo từng ngụm, uống ngay cả khi cơ thể không khát. Luôn mang theo chai nước bên mình nếu có thể. Ghi nhận tổng lượng nước uống hàng ngày trong quá trình điều trị.

4. Vận động cho người thừa cân, béo phì
Vận động là sự kết hợp cần thiết cho người thừa cân, béo phì nhằm tăng năng lượng tiêu hao, giúp duy trì và tăng khối cơ trong cơ thể. Ích lợi của việc tăng khối cơ đã được đề cập ở phần trên. Sự vận động nên bắt đầu từ cường độ nhẹ đến nặng, thời gian từ ngắn đến dài theo lịch trình phù hợp. Những người thừa cân, béo phì có các vấn đề về đau nhức xương khớp hay đau cột sống hay những người không thể tự vận động cần có chế độ tập luyện riêng dưới sự hướng dẫn của chuyên gia. Vận động ít nhất 3 ngày/tuần, hơn 30 phút/ngày. Mức độ hiệu quả nhất là người tập gắng hết sức trong thời gian lâu nhất có thể.

5. Kết luận
Sự phối hợp nghiêm túc tất cả các giải pháp nêu trên sẽ cho kết quả tuyệt vời. Thay đổi sức khỏe ở người thừa cân, béo phì là thay đổi cả về thói quen trong ăn uống: Ăn uống lành mạnh có lợi cho sức khỏe, và thay đổi cả lối sống: Một phong cách sống năng động, thể dục thể thao. Sự thay đổi này lúc đầu sẽ khó khăn đối với một số người, nhưng một khi bạn ưu tiên sức khỏe lên hàng đầu, bạn sẽ có kết quả như mong muốn.

Vấn đề cốt lõi, xuyên suốt trong quá trình điều trị chính là những bữa ăn lành mạnh, cân đối và đầy đủ về mặt dưỡng chất. Nó giúp cho cơ thể phát triển cân đối, hoạt động hiệu quả. Nó giúp cơ thể luôn ở trạng thái cân bằng và khỏe mạnh nhất.

Admin

Xem bài viết...

Bs. Nguyễn Văn Anh

Theo dõi qua

         

Gửi thắc mắc